Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa - tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ở ven bờ phải sông Đáy. Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.
Lịch sử
Chùa Thiên Trù trong quần thể chùa Hương
Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hoà thượng Thích Thanh Chân.[cần dẫn nguồn]
Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Nội từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương Tích ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
Vậy vì sao lại có thêm một chùa Hương Tích "phiên bản" ở phía Bắc? Câu trả lời là vào thời Lê - Trịnh, các vua Lê - chúa Trịnh phần lớn có quê ở xứ Thanh (xem Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái) nên các phi tần, mỹ nữ đa số được chọn tuyển ở miền Hoan Châu. Hằng năm các cung phi, cung nữ Thanh - Nghệ - Tĩnh thường trẩy hội chùa Hương trên núi Hồng Lĩnh vào ngày 18-2 âm lịch bằng đường thủy qua cửa Hội Thống (gần Cửa Lò bây giờ). Mỗi lần những "người đẹp" đi xa như vậy khiến chúa Trịnh rất phân vân (tuy đã bố trí lính vệ phục dịch dọc đường), do đó chúa Trịnh mới gọi một vị hòa thượng xác định địa điểm ở miền rừng núi Hà Sơn Bình để xây chùa Hương Tích thứ hai mà thờ vọng để các "người đẹp" đi trẩy hội gần hơn (theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian VN). Như vậy nhờ "sáng kiến" của chúa Trịnh mà Việt Nam có hai chùa Hương Tích.[cần dẫn nguồn]
Thuyết này có phần vô lý, vì đời vua Lý Thánh Tông đã đến Vùng Hà Tây ngày nay và ngự đặt tên Thiên Trù. Trong tín ngưỡng dân gian, các thầy pháp, thầy thống, thậm chí nhà sư,... đều về Vùng Hương Tích - Hà Tây để tìm mua phong khương, địa liền để hành phù, chữa bệnh. Nếu như Hương Tích thật ở Hà Tĩnh thì không thể có hành động này được. Vì tín ngưỡng miền Bắc cho rằng, khi Quan Âm nhập động đã phun nước từ kim khẩu tưới cây nên phong khương, địa liền ở đây có linh tính, rất tốt. mà truyền thuyết của dân gian thì khó mà ảnh hưởng bởi mệnh lệnh hành chính mà bị sai lệch được. Tên hai chùa có phần giống nhau nhưng mỗi chùa đều có bề dày lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, kiến trúc Phật giáo, cảnh sắc riêng, không thể gọi là bản gốc hay bản sao.
Kiến trúc
Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù (tọa độ: 20°37′5″B 105°44′49″Đ). Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.[1]
Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên (tọa độ: 20°36′47″B 105°44′4″Đ). Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành.[2]
Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này, vốn là ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ "mở cửa rừng" hàm chứa ý nghĩa mới - mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút.
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn … Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãn cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Các đời trụ trì
- Tổ Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Thượng Lâm Viện - Tăng Lục Ty Hoà thượng, Viên Gíac Tôn giả,
- Nguyệt Đường Chân Lý Tổ Sư, Tăng Lục ty Hoà thựơng tự Như trí Gíac Tuệ tổ sư viên tịch 14/4 năm kỷ mùi 1499
- Thiền Trưởng Trần huyền Đạo Thắng Chân Nhân
- Thiền tăng Đạo Nhẫn Chân Nhân
- Cụ Hải Dao, Phạm Đức Thắng, dòng dõi của Trần Đạo Viên Quang Chân nhân, nhận lãnh trụ trì năm 1776
- Tổ Hải Viên (1764 - 1810), ngài xuất gia năm 1775, trụ trì Hương Tích từ năm 1789 - 1810
- Tổ Thông Dụng Hiệu An Trụ, thích cường trực bồ tát.
- Maha sa môn Ngộ Tâm, tam giáo thiền sư, Trực chiến bồ tát.
- Maha sa môn Đồng Bạch tháp, Thông Lâm bồ tát.
- Maha sa môn tỳ kheo, Hương Quang tháp, Tâm Trúc - hiệu Minh Thích Hoàng thiền sư
- Maha sa môn Tiên Quỳnh tháp, pháp danh Thanh hữu, Thích Minh thiền sư
- Tiên kỳ tháp, maha sa môn, Minh Nhẫn Nhục thiền sư, Thích thanh Quyết
- Tiêu Quỳnh tháp, maha sa môn, Trí thích thiền sư
- Tổ Thích Thanh Tích thiền sư (1881- 1964), trụ trì giai đoạn: 1932 - 1956
- Hoà thượng Thích thanh Chân (1905 - 1989), uỷ viên Hội đồng chứng minh, phó chủ tịch hội đồng trị sự TW GHPGVN, trụ trì giai đoạn: 1956 - 1985
- Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), tự Nguyệt Trí, Chân Tịnh Bảo Tháp, Uỷ viên thường trực HĐTS TW GHPGVN, Phó Ban giáo dục tăng ni TW GHPGVN, Phó Ban từ thiện TW GHPGVN, Trưởng ban trị sự PG tỉnh Phú Thọ, Phó ban trị sự PG Hà Tây, Trụ trì giai đoạn 1985 - 2002.
- Thựơng toạ Thích Minh Hiền, (1961), Uỷ viên thường trực HĐTS TW GHPGVN, Phó Ban Văn hoá TW GHPGVN, Phó Ban trị sự thành hội Phật giáo Hà Nội (07/2017-Nay), Trụ trì giai đoạn 2002 - nay
Chùa Hương trong văn học
Chùa Hương là nguồn gợi hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Việt Nam, trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là bài hát nói "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh, làm từ thế kỷ 19, xưa nay rất được ca ngợi:
- Bầu trời, cảnh bụt,
- Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay,
- Kìa non non, nước nước, mây mây,
- "Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!
- Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
- Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
- Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
- Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
- Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
- Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
- Nhác trông lên ai khéo họa hình:
- Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
- Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt..
- Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
- Chừng giang sơn còn đợi ai đây,...
và bài "Chùa Hương" của Nguyễn Nhược Pháp, làm vào thế kỷ 20. Bài này đã được ít nhất 2 nhạc sĩ phổ nhạc là Trần Văn Khê và Trung Đức:
- Hôm qua đi chùa hương
- Hoa cỏ mờ hơi sương
- Cùng thầy me em dậy
- Em vấn đầu soi gương
- ...
Trong bài này ngoài những câu thơ nhí nhảnh như trên, còn có nhiều câu tả cảnh Hương sơn rất sinh động: Réo rắt suối đưa quanh/Ven bờ ngọn núi xanh/Nhịp cầu xa nho nhỏ/Cảnh đẹp gần như tranh/Sau núi oản -gà-xôi/Bao nhiêu là khỉ ngồi/Đến núi con voi phục/Thấy đủ cả đầu đuôi/Chùa lấp sau rừng cây/(Thuyền ta đi một ngày)/Lên cửa chùa em thấy/Hơn một trăm ăn mày...
Tản Đà rất mến cảnh chùa Hương, ông làm nhiều câu thơ rất đặc sắc về cảnh và tình ở đây:
- Chùa Hương trời điểm lại trời tô
- Một bức tranh tình trải mấy Thu
- Xuân lại xuân đi không dấu vết
- Ai về ai nhớ vẫn thơm tho.
- Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
- Đá hỏm hang đen tối tối mò.
- Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
- Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho.
Ông còn có 1 bài thơ nổi tiếng về món đặc sản ở chùa Hương:
- Muốn ăn rau sắng chùa Hương
- Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
- Mình đi, ta ở lại nhà
- Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Về văn xuôi, có bút ký Trẩy hội Chùa Hương của Phạm Quỳnh...
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tương truyền là tác giả bài thơ vịnh động Hương Tích như sau[3]:
- Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
- Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
- Người quen cõi Phật quen chân xọc
- Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
- Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
- Con thuyền vô trạo cúi lom khom
- Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
- Rõ khéo Trời già đến dở dom.